Vừa qua, Cục
Quản lý lao động ngoài nước đã phối hợp cùng Cơ quan Phụ nữ Liên hợp quốc (UN
Women) rà soát và đánh giá Luật số 72/2006/QH11 và các văn bản hướng dẫn
liên quan để thực hiện mục tiêu lồng ghép vấn đề bình đẳng giới tốt hơn khi sửa
đổi Luật về Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm
2006. Tham dự có ông Phạm Viết Hương - Phó Cục trưởng Cục Quản lý lao động ngoài
nước, đại diện UN Women, đại diện 5 Sở LĐ-TBXH, đại diện cho 10 doanh nghiệp và
các chuyên gia về lĩnh vực này.
Chú trọng bảo vệ quyền lợi của lao
động nữ
Theo thống kê của Cục Quản lý lao
động ngoài nước, có khoảng 80.000-100.000 lao động Việt Nam đi xuất khẩu
lao động hàng năm, trong đó có khoảng 30 -35% là nữ. Lao động nữ đi làm việc ở
nước ngoài thường làm các ngành nghề gắn chặt với nữ giới như: giúp việc gia đình Đài Loan (hoặc Macao,
Ả rập xê út, Nhật Bản…), hộ lý, điều dưỡng, chăm sóc người già, công nhân điện
tử, công nhân may... Có thể nói, số lao động nữ đi làm việc ở nước ngoài đã
đóng góp đáng kể vào việc nâng cao mức sống gia đình, phát triển kinh tế hộ gia
đình và địa phương và đem lại lượng kiều hối khá lớn cho đất nước.
Việc bảo vệ quyền lợi của người đi xuất khẩu lao động nước ngoài luôn được
coi trọng, đặc biệt với lao động nữ. Vì đây là đối tượng yếu thế, dễ bị lợi
dụng nhất khi đi làm việc ở nước ngoài. Để quản lý tốt hơn hoạt động cung ứng
lao động cho thị trường quốc tế này, ngày 26.11.2006, Quốc hội đã thông qua
Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Luật định này đã
góp phần tạo hành lang pháp lý quản lý chặt chẽ hoạt động đưa NLĐ Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài, giảm thiểu các phát sinh đáng tiếc và bảo vệ tốt hơn lợi
quyền người lao động.
Ông Phạm Viết Hương - Phó Cục trưởng
Cục Quản lý lao động ngoài nước cho biết: "Hiện nay, Bộ LĐ-TBXH đang chuẩn
bị để xem xét trình Quốc hội sửa đổi Luật cho phù hợp với thực tiễn hơn nữa. Để
chuẩn bị cho việc sửa đổi Luật, Bộ LĐ-TBXH đã thực hiện các nghiên cứu như đánh
giá tình hình thực hiện Luật NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp
đồng, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đưa NLĐ Việt Nam đi
làm việc ở nước ngoài".
Rà soát pháp luật từ góc độ bình
đẳng giới
Việt Nam phê chuẩn Công ước của Liên
hợp quốc về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống phụ nữ (CEDAW) năm 1982
và từ đó Việt Nam cam kết thực hiện những hoạt động nhằm thúc đẩy lĩnh vực bình
đẳng giới trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Để chuẩn bị cho việc sửa đổi Luật
phù hợp với thực tiễn, đảm bảo các nguyên tắc theo quy định của pháp luật, Cục
Quản lý lao động ngoài nước phối hợp với UN Women tổ chức nghiên cứu rà soát
pháp luật về NLĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng từ góc độ bình
đẳng giới.
Bà Nguyễn Kim Lan - điều phối viên
UN Women cho biết: "Trong quá trình soạn thảo, Cục Quản lý lao động ngoài
nước phối hợp với UN Women đã tổ chức lấy ý kiến của các chuyên gia đến từ các
tổ chức xã hội dân sự như: Hội phụ nữ, Hiệp hội xuất khẩu lao động, các cơ quan
trung ương và địa phương, các doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài, các chuyên gia về luật và giới... để đảm bảo tốt hơn
việc quản lý lao động đi làm việc ở nước ngoài và thúc đẩy bình đẳng giới".
Bà Nguyễn Kim Lan đồng thời nhấn
mạnh "Di cư lao động đang trở thành một xu hướng phổ biến. Hiện nay trên
toàn cầu có 232 triệu người di cư, trong đó phụ nữ chiếm 49%. Ở Việt Nam, có
500.000 lao động làm việc tại 40 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó 30-35% là
lao động nữ. Với lượng lao động di cư lớn, thời gian qua, trên thế giới nhiều
tiêu chuẩn về luật pháp quốc tế được xây dựng nhằm bảo vệ lao động di cư và
thúc đẩy bình đẳng giới khuyến khích các quốc gia đảm bảo người lao động di nư
nam và nữ được đối xử bình đẳng trong điều kiện di cư an toàn".
Nghiên cứu rà soát pháp luật về NLĐ
Việt Nam đi xuất khẩu lao động nước ngoài theo hợp đồng từ góc độ bình đẳng giới xác định những bất
cập về thúc đẩy bình đẳng giới. Từ đó, có những đề xuất sửa đổi làm tiền đề cho
việc lồng ghép vấn đề bình đẳng giới tốt hơn khi thực hiện sửa đổi Luật này.
Những phát hiện chính và khuyến nghị gồm: Quyền tiếp cận thông tin; quyền được
pháp luật bảo vệ; các quyền liên quan đến việc làm; quyền được tôn trọng, không
bị xâm phạm thân thể; những vấn đề tài chính liên quan đến NLĐ khi đi làm việc
ở nước ngoài theo hợp đồng, trong đó gồm các khoản phí và chuyển tiền về nước;
những chính sách đối với NLĐ sau khi hết hạn hợp đồng trở về.
(Tổng hợp thông tin từ Bộ LĐ TB
& XH)
0 Comments