Làng Cương Gián (Nghi Xuân - Hà Tĩnh) được xem
là làng giàu nhất xứ Nghệ nhờ đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Địa
danh Cương Gián được chép trong Sử ký toàn thư: “Cương là cương quyết,
Gián là can ngăn”. Cũng có người cho là Gián có nghĩa là giãn rộng, đi
xa. Ở đây còn lưu truyền những câu ca của dòng họ Nguyễn từ Thanh Hóa
vào sinh cơ lập nghiệp từ lâu: “Họ ta vốn gốc từ Diêm Phá - Thuộc tỉnh Thanh vất vả vào đây - Mến yêu cảnh vật nơi này - Cần cù lương thiện vui vầy làm ăn”. Do
quá trình giao lưu buôn bán dọc bờ biển, triền sông khá nhiều người vốn
ở làng này đã thiên cư nhiều nơi hoặc ở xen ghép quần tụ thành từng
chòm, xóm riêng. Trong sách Hoan Châu Phong Thổ kí đã viết về làng Cương
Gián sầm uất, đông đúc với nghề làm nước mắm vang bóng một thời: “Thuyền bè chen chúc dọc bờ sông, sập sả tiếng vang bên bến nước”.
Những năm gần đây, xã Cương Gián (Nghi Xuân) được mệnh danh là "làng
giàu nhất Xứ Nghệ" nhờ đi xuất khẩu lao động (XKLĐ). Địa danh Cương Gián
được chép trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Cương là cương quyết, Gián là
can ngăn”. Cũng có người cho gián có nghĩa là giãn rộng, đi xa...xem thêm: Xuất Khẩu Lao động Đài Loan tuyển nữ làm linh kiện điện tử
Ở đây còn lưu truyền những câu ca của dòng họ Nguyễn từ Thanh Hóa vào sinh cơ lập nghiệp: “Họ ta vốn gốc từ Diêm Phá/ Thuộc tỉnh Thanh vất vả vào đây/ Mến yêu cảnh vật nơi này/ Cần cù lương thiện vui vầy làm ăn”.
Do quá trình giao lưu buôn bán dọc bờ biển, triền sông, khá nhiều người
vốn ở làng này đã thiên cư nhiều nơi hoặc ở xen ghép quần tụ thành từng
chòm, xóm riêng.
Sách
Hoan Châu phong thổ ký đã viết về làng Cương Gián sầm uất, đông đúc với
nghề làm nước mắm vang bóng một thời: “Thuyền bè chen chúc dọc bờ sông,
sập sả tiếng vang bên bến nước”.
Tôi
trở lại làng Cương Gián một ngày gần đây. Con đường 22 chạy dọc bờ biển
mang đến cho các làng quê một luồng sinh khí mới. Đang mơ màng với
những lũy tre xanh giấu sau đó gương mặt của đời sống nông thôn ngàn
đời, tôi bỗng bất ngờ gặp một không gian sống động, nhiều hình khối của
làng Cương Gián. Hơi thở của đô thị đã phả vào đây. Những khối nhà tầng
quét sơn đủ màu sắc. Đất làng như dồn chật lại. Hai bên đường nhựa san
sát những ki-ốt bán hàng, rồi chợ, rồi công sở. Con người Cương Gián
hoạt bát hẳn lên. Nụ cười, gương mặt, kiểu áo, màu tóc rạng rỡ hơn. Làng
đang giàu lên.
Ông
Hoàng Văn Tiến – Phó Chủ tịch UBND xã Cương Gián cho biết: Xã có khoảng
14.000 dân nhưng mấy chục năm nay có tới 2.500 người đã đi xuất khẩu lao động. Mỗi nhà
bình quân có 2-3 người, đặc biệt, có gia đình 9-10 người đi xuất khẩu lao động. Chỉ
tính riêng thị trường Malaysia và Đài Loan, năm ngoái, tiền gửi tín dụng
của lao động xuất khẩu gần 35 tỷ đồng. Cương Gián có 15 thôn, thôn
nhiều nhất có 303 người đi XKLĐ, thôn ít nhất 73 người, bình quân mỗi
lao động gửi về cho gia đình 30 triệu đồng/tháng.
Ông
Tiến dẫn tôi vào nhà chị Lê Thị Thanh ở gần chợ Cương Gián có đến 5 đứa
con gái đi du học. “Du học”. Tôi ngạc nhiên vì cứ tính 1 suất đã mất
một khoản tiền lớn. Nhưng không phải thế, chị Thanh kể: Anh chị đã bán
đàn bò ở nông trại dưới chân núi Hồng Lĩnh cho cô đầu xuất khẩu sang Hàn
Quốc. Cứ thế, chị kéo em sang, có tiền cho em đi nước khác. Đến nay, cả
5 chị em đã có công việc ổn định với thu nhập cao và 3 chị đã lấy chồng
người Việt cũng đi xuất khẩu lao động. Thì ra, “du học” là một cách nói, thật ra,
sang đó để đi làm thuê, học tiếng và học nghề.
Tôi hỏi ông Tiến:
- Nhờ đâu làng Cương Gián có cái “chìa khóa vàng” mở cánh cửa này, rồi vốn, con người?
Ông Hoàng Văn Tiến rót bát nước chè xanh sóng sánh mời tôi và hồ hởi nói:
-
Việc đưa lao động ra nước ngoài làm ăn ban đầu cũng khó khăn do thiếu
yếu tố quyết định là đồng vốn. Dân Cương Gián nghèo nên bài toán này
được giải bằng một phép tính rất đơn giản: cả làng gom tiền lại cho
người lao động, người lao động lại gửi về cho người khác đi tiếp, cứ thế
mà rộng dần. Và để làm được điều này, Cương Gián có một tổ chức trung
gian là quỹ tín dụng nhân dân.
Ông
Trần Kỉnh, nguyên là phụ trách quỹ tín dụng xã ngay từ ngày đầu thành
lập, giở cuốn sổ bằng những ngón tay to bè, sứt sẹo vết lưỡi câu. Đây là
“ngư phủ” chính cống, giờ đây “ngư phủ” đang đọc lên những con số bằng
trí nhớ tuyệt vời của mình. Những con số thân thương không còn hơi đồng,
hơi bạc mà thấm ướt bao mồ hôi, công sức. Những con số tiền tỷ cứ hiện
lên hao hao như gương mặt của những người thân, nó có linh hồn cựa quậy
không chịu nằm yên trong những ô kẻ dòng của cuốn sổ học trò. Tôi hỏi
ông:
- Bí quyết nào để ông tháo gỡ những khó khăn và phát triển quỹ?
-
Một phương án được chấp nhận trước mắt là quỹ tín dụng tập trung huy
động vốn 100%, chỉ cho vay 50%, khuyến khích người gửi nhiều tiền vào
quỹ. Nếu rút trước thời hạn cũng được hưởng lãi suất bằng 20% lãi suất
đúng kỳ hạn.
- Nghe
nói, dân XKLĐ nếu không có quỹ tín dụng làm mạnh thường quân thì khó mà
làm ăn được, phải không bác Kỉnh? Nhưng cho vay như thế cũng mạo hiểm,
lấy gì thế chấp?
Hình như câu hỏi của tôi chạm đến điều tâm đắc nhất nên ông sôi nổi hẳn lên:
-
Thế chấp bằng lòng tin, con em làng xóm cả mà, chuyện cho vay đi xuất khẩu lao động
là việc làm mới mẻ. Cách đây hơn chục năm, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
về khảo sát, thấy vốn thu hồi được đã ra Quyết định 440 cho phép vay hỗ
trợ người đi xuất khẩu lao động.
- Như thế, ông đi trước mở cho ngành ngân hàng một dịch vụ mới?!
- Mình là người ở cơ sở nên thấu hiểu hoàn cảnh cụ thể, từ đó, đúc kết kinh nghiệm và thử làm, đến lúc được Nhà nước chấp nhận.
Tôi
tìm gặp Nguyễn Đại Dương - tỷ phú trẻ gần 30 tuổi. Bố anh là một “tài
công” có tiếng ở đất này. Ông đặt tên con là Đại Dương với khát vọng
chinh phục biển khơi. Nhưng rồi, biển đột ngột mất cá. Ông xót xa nhìn
con thuyền chỏng chơ trên cát, nứt nẻ vì đi biển chỉ có lỗ dầu. Ông
quyết định vay tiền cho Đại Dương đi xuất khẩu lao động. Chàng trai có vóc người chắc
đậm, vòng ngực, vòng tay cuồn cuộn thấm cái gen của ông nên yêu biển từ
nhỏ, được ông truyền nghề, truyền cả đức tính cần cù, chịu khó.
Dương
sang Hàn Quốc làm nghề đi biển. Trong một dịp lên bờ, tình cờ, Dương
gặp cô gái cùng làng sang đây làm ở xưởng may mặc có cái tên hiền dịu là
Hương Mai. Đám cưới của họ được hội đồng hương tổ chức tuy đơn giản
nhưng ấm áp. Giờ đây, Đại Dương có một cửa hàng kim hoàn vàng bạc cạnh
chợ Cương Gián, còn Hương Mai là chủ cửa hàng may mặc với nhiều kiểu mốt
mới lạ, được giới trẻ yêu thích.
Tôi hỏi ông Hoàng Văn Tiến:
- Khi đời sống được nâng lên, thanh niên dễ sa vào tệ nạn xã hội. Thế còn làng Cương Gián?
Ông Tiến nói:
-
Ở làng này, ít xảy ra điều đó, vì đồng tiền họ kiếm được từ sức lao
động. Người lao động xuất khẩu của Cương Gián lao lực gần chục năm trời
nơi đất khách quê người mới có được số vốn ban đầu ấy. Thanh niên về
làng tập trung thời gian, trí lực tìm cách quay vòng đồng tiền, ít sa
vào cám dỗ. Tuy nhiên, tìm ra nghề mới không phải dễ. Vì ở đây, dân chủ
yếu làm nghề đánh cá cha truyền con nối. Mà biển xanh thì chảy “máu
trắng” từ lâu rồi. Còn trên bờ, đất chật, người đông, dịch vụ mọc lên
san sát, có khi, người bán nhiều hơn người mua nên chúng tôi tìm cách
tạo ra những mô hình kinh tế mới. Ví dụ như thực hiện phủ xanh 315 ha
rừng ở núi Hồng Lĩnh. Rồi hàng trăm hộ đầu tư nguồn vốn xây dựng trang
trại chăn nuôi đàn bò, đàn dê hàng nghìn con. Lạch Kèn bây giờ được bà
con ở thôn Đại Đồng, Song Long vay vốn từ quỹ tín dụng xã cùng với tiền
con em nước ngoài gửi về cải tạo gần 40 ha đất sình lầy thành cánh đồng
nuôi tôm có năng suất cao. Nhưng điều làm tôi tâm đắc nhất ở thế hệ trẻ
là khi lao động xuất khẩu về, họ học được tác phong công nghiệp, nhạy
bén tiếp thu những cái mới trong làm ăn và ứng xử có văn hóa với cộng
đồng.
Làng Cương Gián
sau một cuộc trở mình đã gần như lột xác bằng chính sự cương quyết không
cam chịu đói nghèo, nới rộng, giãn ra tầm nhìn của mình như cái tên vốn
có.
Tỉnh Đồng Tháp “thoát nghèo bền vững” nhờ xuất khẩu lao động nước ngoài
theo báo Hà Tĩnh
0 Comments